BỆNH CHÂN TAY MIỆNG
Triệu chứng, điều trị và dự phòng
Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm cấp tính có thể gây dịch, thường gặp ở trẻ em, nhất là nhóm trẻ dưới 5 tuổi, sở dĩ có tên gọi đó là do các biểu hiện bệnh là ban đỏ và mụn nước dễ nhận thấy ở các vị trí ở lòng bàn tay, bàn chân và trong miệng. Ngoài các tổn thương có thể quan sát được ở da và niêm mạc, bệnh tay chân miệng còn có thể gây biến chứng nặng cho hệ hô hấp, tuần hoàn, thần kinh dẫn đến nguy cơ tử vong cho trẻ. Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và cũng chưa có vắc xin phòng bệnh nên bệnh tay chân miệng vẫn là một thách thức đối với y học và là mối đe dọa nguy hiểm đối với sức khỏe con người
Theo Bộ Y tế, từ đầu năm tới nay tình hình bệnh tay chân miệng có chiều hướng diễn biến phức tạp, trên cả nước đã ghi nhận được trên 20.000 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, trong đó có 2 ca đã tử vong. Để góp phần nâng cao nhận thức và khuyến khích các hành vi tích cực của cộng đồng làm giảm số ca mắc bệnh, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin về nguyên nhân, triệu chứng, điều trị và dự phòng bệnh tay chân miệng.
1. Căn nguyên của bệnh:
Bệnh tay chân miệng do một số vi rút đường ruột gây ra, hay gặp nhất là Coxsackievirus A16, A6, A10 và Enterovirus 71.
Bệnh lây truyền chủ yếu theo phương thức trực tiếp: Vi-rút gây bệnh có khả năng lây lan rất nhanh qua đường miệng. Trong những đợt bùng phát, bệnh có thể lây rất nhanh từ trẻ này sang trẻ khác qua các chất tiết mũi miệng, phân hay bọt nước của trẻ bệnh: Trẻ lành tiếp xúc trực tiếp với trẻ bệnh do nuốt phải nước bọt của trẻ bệnh được văng ra trong lúc ho, hắt hơi; hoặc do trẻ lành cầm nắm đồ chơi, sờ chạm vào sàn nhà bị dây dính nước bọt, chất tiết mũi họng, phân của trẻ bệnh. Ngoài ra bệnh còn lây cho trẻ qua bàn tay chăm sóc của người thân, cô bảo mẫu nếu không được vệ sinh sạch sẽ, qua thức ăn, nguồn nước ô nhiễm phân và chất thải của bệnh nhân.
Bệnh tay chân miệng xảy ra quanh năm và thường bùng phát vào mùa xuân, hè khi thời tiết ấm và ẩm, thuận lợi cho vi rút nhân lên và gây bệnh.
Vi-rút xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc miệng hay ruột vào hệ thống hạch bạch huyết và từ đó sẽ phát triển rất nhanh, theo đường máu gây ra các tổn thương ở da, niêm mạc, tim, phổi, hệ thần kinh...
2. Triệu chứng của bệnh
- Giai đoạn khởi phát: Biểu hiện sớm nhất của bệnh nhân là mệt mỏi, sốt nhẹ (38 - 38,5 độ C), đau họng, nôn, có thể tiêu chảy một vài lần trong ngày.
- Giai đoạn toàn phát: Đầu tiên là sự xuất hiện các mụn nước ở niêm mạc miệng, thường là ở mặt trong má, lợi, lưỡi, họng; các mụn nước có kích thước nhỏ (2-3mm) nằm trên một nền niêm mạc viêm đỏ. Các mụn nước trong miệng thường vỡ rất nhanh tạo ra các vết trợt loét rất đau rát làm bệnh nhân khó ăn uống. Tiếp theo, xuất hiện các ban đỏ, mụn nước ở bàn chân, bàn tay, đôi khi gặp cả ở mông, gối. Các mụn nước này thường không gây đau rát; chúng tồn tại trong vòng 7 đến 10 ngày rồi xẹp xuống và tự mất đi kể cả khi không được điều trị. Sau khi khỏi bệnh, cơ thể bệnh nhân có miễn dịch với chủng virus gây bệnh, nhưng một người có thể bị bệnh tay chân miệng nhiều lần nếu lần sau bị nhiễm các chủng virus khác với những lần trước.
- Các biến chứng của bệnh tay chân miệng:
Bệnh có thể gây biến chứng viêm não, màng não, viêm cơ tim, viêm phổi. Đây là những biến chứng rất nguy hiểm, có thể gây tử vong, thường do chủng EV 71 gây ra. Biểu hiện:
o Run, yếu chi, hay giật mình, nặng hơn thì vật vã, kích thích, hôn mê.
o Da tím tái, vã mồ hôi, mạch nhanh, sốt cao liên tục 39 – 40 độ.
o Thở nhanh nông, khò khè, trào bọt hồng ra miệng.
Các biến chứng này thường xuất hiện rất đột ngột nên cần theo dõi sát trẻ để cấp cứu kịp thời.
3. Cách xử trí khi trẻ có biểu hiện của bệnh tay chân miệng:
- Khi trẻ có một hay nhiều triệu chứng kể trên cần đưa trẻ đến các cơ sở y tế để được khám và chẩn đoán xác định vì nhiều bậc cha mẹ thường hay nhầm lẫn giữa bệnh tay chân miệng với thủy đậu, viêm da, ghẻ…
- Với trẻ bị bệnh tay chân miệng nhẹ có thể không cần nhập viện, việc điều trị, chăm sóc và theo dõi trẻ bị tay tại nhà phải tuân theo đơn thuốc và hướng dẫn của bác sỹ, không được chọc vỡ mụn nước vì sẽ dẫn đến bội nhiễm vi khuẩn và làm phát tán mầm bệnh ra môi trường xung quanh, không tự ý cho trẻ uống một số loại thuốc chống dị ứng, chống ngứa (thường là thuốc kháng Histamine) vì thuốc có thể làm cho trẻ ngủ gà ngủ gật, khó phát hiện các biến chứng về thần kinh
- Khi trẻ có các biểu hiện nặng hoặc biến chứng, cần đưa ngay trẻ tới các bệnh viện có đủ điều kiện để cấp cứu.
4. Phòng bệnh
Bệnh tay chân miệng hiện vẫn chưa có vắc xin dự phòng nên việc giữ gìn vệ sinh, phòng chống lây nhiễm đóng vai trò quan trọng.
• Tại các gia đình:
- Luôn rửa tay trước và sau khi vệ sinh, chăm sóc trẻ, trước khi chuẩn bị thức ăn, thực hiện “ăn chín, uống sôi”
- Khuyến khích trẻ bị bệnh rửa tay thường xuyên
- Tránh dùng chung vật dụng với người nhiễm bệnh.
- Bảo đảm các bề mặt như sàn nhà, bếp, mặt bàn luôn sạch sẽ.
- Giặt chăn ga gối hoặc quần áo có thể dính nước bọt, dịch từ mụn nước hoặc phân bằng nước nóng.
- Theo dõi các biểu hiện sốt, loét miệng, phỏng nước đối với các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trẻ em để thông báo cho trạm y tế.
- Cần tăng cường sức đề kháng bằng các dinh dưỡng hợp lý và bổ sung các nhóm vi ta min cho trẻ.
• Tại bệnh viện, trường học, nhà trẻ
- Người bệnh được cách ly, trẻ bị bệnh không đến nhà trẻ, trường học trong tuần đầu tiên của bệnh, đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người khác.
- Phân và chất thải của bệnh nhân phải được khử khuẩn bằng Cloramin B; quần áo, chăn màn, dụng cụ của bệnh nhân phải được khử khuẩn bằng đun sôi, ngâm dung dịch Cloramin B.
- Người chăm sóc bệnh nhân phải thực hiện vệ sinh cá nhân, hạn chế dùng chung các vật dụng với người bệnh.
- Khi trẻ còn triệu chứng của bệnh, không cho trẻ tham gia các hoạt động có nhiều trẻ em tham gia.
- Vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc với phân, nước bọt).
- Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, lau sàn nhà bằng dung dịch khử khẩn Cloramin B 2% hoặc các dung dịch khử khuẩn khác.
- Khuyến cáo các trường học khi có từ 2 trẻ trở lên trong một lớp bị mắc bệnh trong vòng 7 ngày thì cho cả lớp nghỉ học từ 10 – 14 ngày kể từ ngày khởi bệnh của ca cuối cùng, xử lý tốt môi trường, phun thuốc khử trùng không để bệnh bùng phát và lan rộng cho cộng đồng.